
Cuộc đời & sự nghiệp
LÊ CÔNG THÀNH
1/2/1931: Sinh tại Hải Châu, Đà Nẵng là con cả trong gia đình chủ hiệu may có cha là Lê Trường Đồng, mẹ là Nguyễn Thị Lan. Dưới Lê Công Thành có hai em trai và ba em gái trong đó ba người đã mất khi còn nhỏ, một người em gái là bà Lê Thị Canh hy sinh trong kháng chiến chống Pháp, người còn lại, Lê Thị Vân, hiện đang cùng chồng con định cư tại Mỹ.(1)
1931 – 1954:
Tuy sinh tại Đà Nẵng, Lê Công Thành trải qua phần lớn tuổi thơ tại nhà ngoại ở Quảng Ngãi với 10 người dì và 2 người cậu. Xuất thân xứ Quảng và việc thường hay lui tới Bảo tàng Điêu khắc Chăm do người Pháp hoàn thành năm 1916 tại Đà Nẵng đã có ảnh hưởng sâu sắc tới sáng tác của Lê Công Thành như chính ông sau này thừa nhận: “Tôi trở thành một nhà điêu khắc tất cả vì được bao quanh bởi điêu khắc Chăm-pa.”(2)
18 tuổi nhập ngũ, Lê Công Thành làm phóng viên cùng hoạt động với Nguyên Ngọc, vừa viết vừa vẽ minh họa cho báo Quân đội. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, Lê Công Thành tập kết ra Bắc – tiếp tục làm ở báo Quân Đội.
1955 – 1962:
Lê Công Thành được cử đi học mỹ thuật khóa Tô Ngọc Vân (1955-1957) và trở thành sinh viên duy nhất trong lớp Điêu khắc Khóa I, trường cao đẳng mỹ thuật Việt Nam (1957-1962) dưới sự hướng dẫn của hai giảng viên – nhà điêu khắc Việt Nam nổi tiếng đương thời – Diệp Minh Châu và Nguyễn Thị Kim, và chuyên gia Liên Xô Givi V. Mizandari. Bạn bè nghệ sĩ học cùng trường trong thời gian đó gồm có: Phước Sanh, Phạm Mười, Nguyễn Hải, Giáng Hương, Thanh Ngọc…
Năm 1960, Lê Công Thành có tác phẩm đạt giải 3 Triển lãm Mỹ thuật Toàn quốc (Tượng Xã viên mới)(3) và trở thành thành viên của Tổ sáng tác do Hội Mỹ thuật Việt Nam thành lập, nơi “tập hợp các Họa sĩ và Nhà Điêu khắc có năng lực” cùng với Nguyễn Sáng, Nguyễn Tư Nghiêm, Bùi Xuân Phái, Dương Bích Liên, Lưu Công Nhân, Nguyễn Thị Kim và Nguyễn Hải… Các thành viên của Tổ sáng tác được hưởng lương của nhà nước, không phải đến cơ quan làm việc mà chỉ dành thời gian cho sáng tác.(4)
Tác phẩm tốt nghiệp Lên công trường (1962) của Lê Công Thành cho thấy ở ông sự vững chãi cần thiết của một nhà điêu khắc, có nghiên cứu cổ điển chắc chắn, thể hiện một phong cách khác biệt với tất cả giảng viên trong trường cũng như bạn bè cùng trang lứa.
1962 – 1975:
Năm 1962, Lê Công Thành tốt nghiệp lớp Điêu khắc khóa I, được mời sang làm giảng viên trường Trung cấp Mỹ thuật Công nghiệp (năm 1965 đổi tên thành Cao Đẳng Mỹ thuật Công Nghiệp) cho đến năm 1975, đồng thời làm giảng viên tại trường Đại học Kiến trúc Việt Nam trong khoảng ba năm (1962-1965). Các sinh viên theo học điêu khắc ở trường Mỹ thuật Công nghiệp giai đoạn này gồm có: Ta Quang Bạo, Tạ Duy Đoán, Ninh Thị Điền, Nguyễn Văn Tự, Trần Văn Mỹ.Năm 1962 cũng là năm Lê Công thành gặp Nguyễn Thị Kim Thái khi bà vừa mới trở thành sinh viên khoa lụa của trường Trung cấp Mỹ thuật Công nghiệp, đến năm 1965 thì kết hôn.Do những trận oanh tạc của Mỹ vào Miền Bắc, giảng viên và sinh viên trường Trung cấp Mỹ thuật Công nghiệp nhiều lần phải sơ tán lên Hà Bắc (những năm 1965-1967 và 1967- 1971), và Đoan Hùng, Vĩnh Phú (1972). Tuy gặp nhiều khó khăn, nhưng đây lại là thời kỳ rất tự do trong sáng tác. Lê Công Thành làm việc nhiều với chất liệu gỗ, chủ yếu là gốc mít do bà con miền núi đem tặng. Các chất liệu khác đều thiếu thốn.Năm 1968-1970, Lê Công Thành được nhà nước cử đi Thực tập Điêu Khắc tại Học viện nghệ thuật Surikov Moscow với mục tiêu đào tạo giảng viên cho trường Cao đẳng Mỹ Thuật Công Nghiệp.Các tác phẩm nổi bật giai đoạn này gồm có: tượng Nữ dân quân (1969); tượng tròn Bác Hồ và các cháu (1972); tượng Vân dại và Bà má nghiền trầu (1973), Bầu trời Hà Nội tháng chạp năm 1972 (chất liệu gò nhôm, Giải A Triển lãm Mỹ thuật Toàn quốc lần thứ 10 năm 1976), tượng Hồ Xuân Hương và Nguyễn Trãi (1976).(5)Trong hơn 10 năm giảng dạy tại trường Mỹ thuật Công nghiệp Lê Công Thành, cùng với Nguyễn Hải, bằng tài năng và phong cách sáng tác rất riêng của mình, đã có sức ảnh hưởng mạnh mẽ làm thay đổi diện mạo của khoa điêu khắc trường Mỹ thuật Công nghiệp, đặt nền móng cho một trường phái điêu khắc mang tên trường như có thể thấy trong đánh giá triển lãm Mỹ thuật Toàn Quốc lần thứ 10 năm 1976:“Thứ nhất, xin tạm gọi là sự bùng nổ của điêu khắc, mà thời đó người ta từng bàn tán về trường phái điêu khắc Mỹ thuật Công nghiệp. Cần lưu ý ngay rằng tuy mang danh Mỹ thuật Công nghiệp nhưng ở đây không có sản phẩm công nghiệp nào cả, mà chỉ gồm toàn tác phẩm điêu khắc tạo hình của một số thầy trò trường này. Họ đã cách tân khá táo bạo so với phần lớn điêu khắc vẫn trung thành với chủ nghĩa Hiện thực XHCN (điển hình là tượng chân dung bà Nguyễn Thị Định của Trần Văn Lắm). Những cách tân này, kỳ diệu thay, lại không hề xa rời cuộc sống vì vẫn rất truyền cảm, tràn đầy sinh lực và rất thuyết phục bạn nghề. Có thể kể đến Thánh Gióng của Nguyễn Hải, Hồ Xuân Hương hay Nguyễn Trãi của Lê Công Thành, Truyện cổ tích của Lê Liên, Mẹ con hay Ra trận của Ninh Thị Đền, Bác Hồ đi công tác của Hứa Tử Hoài, Người mẹ Trường Sơn của Tạ Quang Bạo… Điều đáng nói là tượng của họ rất có ngôn ngữ điêu khắc, thoát hẳn khỏi hiện thực thường tình. Tất nhiên, khi đề cao trường phái này, chúng tôi không hề có ý hạ thấp các tác phẩm ưu tú khác như tượng của Lê Đình Quỳ, Vương Học Báo, Mô Lô Kai- vốn xuất phát từ trường Mỹ thuật Yết Kiêu. Ba tác giả trên đây cũng nổi bật, song họ có vẻ đứng riêng, không hòa vào dòng chảy sôi nổi như trường phái Mỹ thuật Công nghiệp trên đây.”(6)
1975 – 1985:
Năm 1975, Lê Công Thành nghỉ dạy tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Công Nghiệp, chuyển về sáng tác tự do trong Tổ sáng tác. Căn nhà nhỏ của của ông ở khu tập thể Vĩnh Hồ trở thành nơi tụ tập qua lại, bàn công việc và chia sẻ những quan điểm sáng tác, quan điểm nghệ thuật của các nghệ sĩ cấp tiến nhất lúc bấy giờ. Ngoài ra, ông còn cùng các nghệ sĩ, kiến trúc sư khác trong đó có Nguyễn Hải thường xuyên tổ chức các buổi tọa đàm, nói chuyện điêu khắc hiện đại và thứ bảy hàng tuần dành cho sinh viên mỹ thuật và các nghệ sĩ trẻ.(7)
Năm 1979, Lê Công Thành tham gia Triển lãm Điêu khắc Quốc tế tại Riga, Latvia.
Năm 1983, ông được bổ nhiệm làm Ủy viên Ban chấp hành, Ủy viên Hội đồng Nghệ thuật, Phó Chủ tịch chuyên ngành điêu khắc Hội Mỹ thuật Việt Nam khóa II (1983-1989).(8)
1985 – 2003:
Năm 1985, Lê Công Thành nhận lời làm tượng đài duy nhất trong sự nghiệp sáng tác tại Núi Thành, Quảng Nam. Sau khi nhận ra những tệ nạn trong việc làm điêu khắc tượng đài cộng thêm tai nạn ngã từ độ cao 30m khi leo lên kiểm tra công trình, Lê Công Thành rút lui dần khỏi các hoạt động của Hội, kiên quyết từ chối làm tượng đài, trở về sáng tác cá nhân và hiếm khi xuất hiện trước công chúng mặc dù vẫn giữ chức vụ trong Hội Mỹ thuật Việt Nam cho đến năm 1989 và sinh hoạt trong Tổ sáng tác cho đến năm 1991.
Thời gian này Lê Công Thành cho ra đời hàng loạt những tác phẩm có kích thước nhỏ và vừa chẳng hạn phác thảo tượng Mẹ Âu Cơ (hay Người đàn bà và bọc trứng) năm 1985 – sau này được phóng lớn dựng tại Đà Nẵng, Tượng sân vườn bằng đất nung chỉ cao 10cm tham dự Triển lãm Mỹ thuật Toàn quốc năm 1990(9). Đồng thời, ông bắt đầu thử nghiệm với điêu khắc tấm mỏng và cho ra hàng loạt phác thảo sử dụng kim loại nhẹ, bìa carton, và dây căng sau này sử dụng thêm một số lá kim loại mỏng có thể cắt tay như đồng, nhôm. Ngoài những tác phẩm gửi tham dự triển lãm có thể xác định mốc thời gian, các tác phẩm sáng tác giai đoạn này rất khó để sắp xếp theo niên đại.
Về các tác phẩm điêu khắc tấm mỏng của Lê Công Thành, nhà phê bình mỹ thuật Nguyễn Quân có nhận xét: “Những “mô hình” tượng đài với kết cấu thép tấm, dây căng và những mảng và ô rỗng trừu tượng, biến hóa trong không gian mang tính hoành tráng ở tự thân ngôn ngữ điêu khắc chứ không dựa theo đề tài và kích cỡ. Những hình thể (con người, trước hết là phụ nữ) được chia cắt, sắp xếp, tỉa gọt và tượng trưng hóa với các “bộ phận” được tháo rời ra để rồi kết hợp lại thành một toàn thể khác mới lại và khởi nguyên.”(10)
Năm 1997, Lê Công Thành tham gia một triển lãm tại Pháp về Mỹ thuật Đông Dương. Ông và vợ sang Pháp một tháng, có thời gian lưu lại Paris và gặp gỡ với Anne Dubosc, người sau này đã có quan hệ thân thiết với gia đình và viết bài tự sự Lê Công Thành trong cuốn vựng tập Điêu khắc Lê Công Thành do Trần Hậu Tuấn biên tập và xuất bản năm 2007.(11)
Năm 1991, Lê Công Thành xuất hiện trong một triển lãm tại Hong Kong. Trong cuốn Uncorked Soul: Contemporary Art from Vietnam – NXB Plum Blossoms, tập hợp các tên tuổi nghệ sĩ hàng đầu Việt Nam Đương thời, tác giả Jeffrey Hantover viết về Lê Công Thành:
“Ông mơ về các tác phẩm điêu khắc tượng đài có thể sánh ngang với những gì Moore và Calder làm cho các văn phòng của UNESCO tại Paris.
Một họa sĩ chỉ cần sơn và toan là có thể hiện thực hóa mọi ước mơ. Một nhà điêu khắc mơ về những công trình lớn như Lê Công Thành cần có sự hợp tác của rất nhiều người và rất nhiều tiền. Ông cảm thấy cô đơn, buồn bã vì không có ai để chia sẻ ‘những điều tôi đã học và mờ về trong những năm qua. Tôi có thể làm những tượng đài khổng lồ chứ không phải những mô hình nhỏ như thế này trong nhà mình… Nếu tôi không nói ra suy nghĩ của mình, không ai có thể hiểu những gì đang có trong đầu tôi. Những giấc mơ của tôi sẽ chết cùng với tôi.’ ” (12)
2003 – 2015:
Trong một bài phỏng vấn với nhà báo Hoàng Xuân Tuyền đăng trên báo Văn Nghệ Trẻ, Lê Công Thành nói: “Tôi không còn bận tâm về việc nặn tượng nữa. Tôi không còn muốn khám phá thêm điều gì mới mẻ hơn. Cốc nước đã đầy, Không nên đổ thêm nữa, tràn đầy vô ích. Bây giờ tôi chỉ còn biết vui chơi trong lĩnh vực nghệ thuật này thôi.”(13) Trong giai đoạn này ông hầu như ngừng sáng tác, nhưng có tham gia một số triển lãm và hoạt động Mỹ thuật:
2007: Triển lãm Good Morning Vietnam, Good Morning Korea tại Seoul, Hàn Quốc
2008: Triển lãm tác phẩm điêu khắc và hội họa của Lê Công Thành – Nguyên Kim Thái tại Trung tâm Văn hóa Hàn Quốc, Hà Nội
2006-2007: Trưng bày 3 tượng: Người phụ nữ nằm sấp, Ngực, Chim sắt tại trại sáng tác Hòn Dấu, Hải Phòng
Năm 2007 Lê Công Thành trở về quê hương Đà Nẵng làm tượng mẹ Âu Cơ. Việc thi công bức tượng một cách lặng lẽ và hoàn thành trong thời gian nhanh kỷ lục (chỉ một tháng rưỡi) đã khiến dư luận xôn xao. Nhiều trang báo đã đưa tin về sự kiện, thậm chí còn thêu dệt thành một giai thoại.
2015 – nay:
Cuộc gặp gỡ với nhà điêu khắc trẻ Nguyễn Lập Phương năm 2015 và sự tiếp xúc với điêu khắc đương đại Việt Nam khơi lại nguồn cảm hứng cho Lê Công Thành, giúp ông quay trở lại sáng tác miệt mài từ đó đến nay.(14)
Năm 2017, Triển lãm Tranh giấy Lê Công Thành đã tiết lộ gương mặt họa sĩ của Lê Công Thành mà bấy lâu công chúng ít biết tới.
Năm 2018, triển lãm 3. 3. 3 (22/07 – 19/08/2018) do Heritage Space tổ chức được đánh dấu là triển lãm điêu khắc cá nhân đầu tiên của Lê Công Thành trong suốt sự nghiệp trải dài hơn một nửa thế kỷ của ông./.
Năm 2019, Lê Công Thành mất ngày 28.3.

Cuộc đời & sự nghiệp
NGUYỄN KIM THÁI
Họa sĩ Nguyễn Kim Thái (sn.1943) tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật Việt Nam và sáng tác chủ yếu trên các chất liệu sơn dầu, sơn mài, lụa. Được biết đến là một trong những nữ họa sĩ đầu tiên của thời kỳ Đổi mới, bà từng đạt nhiều giải thưởng mỹ thuật trong nước.
Nguyễn Kim Thái bắt đầu con đường sáng tác mỹ thuật từ năm 1962 với nhiều mảng đề tài: phong cảnh, đời sống, dân quân, bộ đội, nông dân, mẹ con, thiếu nhi và vẻ đẹp khoả thân của người phụ nữ. Bà cũng là nữ hoạ sĩ hiếm hoi với khối lượng tranh nude đồ sộ và đa dạng. Tranh của bà mang phong cách và có sức hút riêng biệt; mỗi bức đều “toả” ra những nét dung dị, phóng khoáng, tự nhiên, gợi cảm và đầy sức mạnh.
Source: https://nguyenartfoundation.com/vn/artist/nguyen-kim-thai-vn-vn/